Hỏi và đáp với các nhà nghiên cứu của Đại học Georgetown: Tiến sĩ Matthew Hassett và Giáo sư Tiến sĩ Paul Roepe về bài viết đánh giá được công bố gần đây của họ mang tựa đề “Nguồn gốc và sự lây lan của tình trạng kháng Artemisinin ở ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum tại Đông Nam Á”.

USP: Mục tiêu của bài đánh giá là gì?

Ts. Hassett: Dự án của chúng tôi tập trung vào việc tìm hiểu tác động của chất lượng thuốc đối với sự lây lan của tình trạng kháng kháng sinh (AMR), đặc biệt là sự kháng thuốc của ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum. Để đánh giá, chúng tôi đã xem xét lịch sử dịch tễ học của sự tuần hoàn ở tình trạng kháng thuốc của P. falciparum tại Đông Nam Á. Hiện nay, phương pháp điều trị được Tổ chức Y tế Thế giới khuyên dùng để chữa nhiễm trùng sốt rét là liệu pháp tổ hợp arteminisinin (ACT), đó là sự kết hợp của một loại thuốc arteminisinin có tác dụng nhanh giúp giảm lượng ký sinh trùng trong cơ thể một cách nhanh chóng và một loại thuốc có tác dụng lâu dài. Mục tiêu của chúng tôi là tìm hiểu khi nào tình trạng kháng arteminisinin xuất hiện ở Đông Nam Á và làm thế nào mà nó lan rộng trong thập kỷ qua. Tài liệu cho chúng ta biết rằng tình trạng kháng arteminisinin không được nhận ra mãi cho đến giữa những năm 2000 trên các ấn phẩm đầu tiên xuất hiện vào năm 2007 – 2008. Chúng ta có thể xem xét lại các mẫu đã lưu và kiểm tra các dấu hiệu phân tử cụ thể hoặc các yếu tố nhận dạng khác giúp ta hiểu được tính kháng arteminisinin là gì. Chúng ta cũng có thể theo dõi sự lây lan của hiện tượng này qua Đông Nam Á để biết rõ hơn sự kháng thuốc đang nổi lên và lan rộng như thế nào, những loại môi trường mà ký sinh trùng kháng thuốc ưa thích. Một mối lo ngại lớn đối với bệnh sốt rét là khả năng lan truyền tình trạng kháng thuốc sang lục địa châu Phi. Chúng tôi quan tâm đến việc tìm hiểu tốc độ lây lan nhanh như thế nào, cố gắng tìm ra thước đo thích hợp và làm cách nào để những dữ liệu này khớp với các nghiên cứu khác mà chúng tôi đang thực hiện trong phòng thí nghiệm.

USP: Tại sao Tiến sĩ chọn khu vực Đông Nam Á?

Ts. Hassett: Khu vực Đông Nam Á là tâm điểm của tình trạng kháng thuốc sốt rét và hiện tại đó là khu vực có nguy cơ cao nhất trên thế giới kháng các loại thuốc arteminisinin, nhóm thuốc cuối cùng điều trị hiệu quả tất cả các loài gây bệnh sốt rét trên toàn thế giới. Đây là khu vực duy nhất trên thế giới cho ta thấy sự thất bại nặng nề của thuốc artemisinin và là những nước duy nhất trên thế giới đã được xác định rằng một số ACT đang mất tác dụng.

USP: Tiến sĩ đã thực hiện bài đánh giá trong khung thời gian nào?

Ts. Hassett: Đây là hiện tượng kháng thuốc đầu tiên được xác định từ giai đoạn đầu, có lẽ là trong thời gian đảo ngược sự lây lan. Dòng thời gian của chúng tôi cho nghiên cứu bao trùm khoảng thời gian mà hiện tượng kháng thuốc này được xác định – theo nghĩa đen là từ khi bắt đầu kháng thuốc cho đến ngày nay.

Ts. Roepe: Dòng thời gian nghiên cứu cũng trùng với thời gian sử dụng các loại thuốc này trong khu vực. Artemisinin đã được sử dụng như một loại thuốc đơn vào những năm 1990 và sau đó được dùng kết hợp với một thuốc khác trong tổ hợp ACT theo yêu cầu của WHO vào năm 2001. Tình trạng kháng thuốc bắt đầu vào khoảng năm 2007.

USP: Tiến sĩ đã phải đối mặt với những thách thức nào khi thực hiện bài đánh giá này?

Ts. Hassett: Sự kháng thuốc đã không được xác định cho đến giữa những năm 2000, vì vậy thách thức lớn là bản chất của dữ liệu có sẵn. Chúng tôi đã xem xét dữ liệu của các mẫu máu được lưu trữ và bị giới hạn trong việc nghiên cứu các đặc tính di truyền có liên quan đến sự kháng thuốc.

Ts. Roepe: Chúng tôi cũng bị giới hạn ở những gì mà người đầu tiên phân tích các mẫu này có khả năng thực hiện trong phòng thí nghiệm tại thời điểm đó, vì vậy dữ liệu có thể bị vụn vặt và hình ảnh có độ phân giải thấp.

USP: Những phát hiện quan trọng của bài đánh giá là gì?

Ts. Hassett: Điểm đáng chú ý là mối lo ngại sự lây lan của tình trạng kháng thuốc này đến Châu Phi, như chúng ta đã thấy đối với các nhóm thuốc chống sốt rét khác. Điều gây ngạc nhiên ở bài đánh giá là đã cho ta thấy hiện tượng này đang di chuyển nhanh như thế nào qua Đông Nam Á. Đã có một số ít thuốc mất tác dụng ở tiểu lục địa Ấn Độ và châu Phi. Rõ ràng, vấn đề này không phải ở cấp độ Đông Nam Á, nhưng điều đáng lo ngại là chúng ta đang xác định được thực tế tính kháng thuốc này lan rộng nhanh như thế nào.

Một phát hiện quan trọng khác là làm thế nào để giải quyết sự lây lan của tình trạng kháng thuốc khi ta vẫn chưa có một kế hoạch cụ thể, thống nhất. Đây là những loại thuốc cuối cùng mà ta dùng để chống lại bệnh sốt rét. Không có những thuốc tiềm năng mới nào trong phòng khám mặc dù đã có một số loại thuốc trong các thử nghiệm lâm sàng mà chúng tôi hy vọng có thể thay thế các loại thuốc này. Hiện nay những loại thuốc mới này là giải pháp duy nhất cho tình trạng kháng thuốc. Vì vậy, đánh giá này đã thực sự nhấn mạnh việc phát minh các liệu pháp tổ hợp artemisinin mới quan trọng như thế nào.

USP: Tiến sĩ hy vọng những phát hiện của ông sẽ mang tới điều gì?

Tts. Hassett: Bài đánh giá này là một phần nhỏ trong mục tiêu nghiên cứu tổng thể của tôi. Chúng tôi đang trực tiếp nghiên cứu ở phòng thí nghiệm trực tiếp để cố gắng xem xét tình trạng này tốt nhất có thể trong một môi trường được kiểm soát. Một trong những mục tiêu của việc nghiên cứu, kết hợp với phân tích của tôi từ bài đánh giá, là nhằm làm rõ một số mối tương quan giữa thuốc không đạt tiêu chuẩn và sự kháng kháng sinh có thể thực sự ảnh hưởng đến chế độ điều trị ở khu vực nhiễm bệnh.

Ts. Roepe: Khi xem xét vấn đề thuốc kém chất lượng tác động đến AMR, chúng ta cần chia thành sự thúc đẩy cho việc xuất hiện của tính kháng thuốc và sự lây lan của tính kháng thuốc. Đó là hai vấn đề khác nhau, vì vậy Matt đang cố gắng phân biệt điều đó bằng cách thực hiện các thí nghiệm trực tiếp trong phòng thí nghiệm để mô phỏng làm thế nào các thuốc không đạt tiêu chuẩn gây ra tính kháng thuốc. Với dữ liệu đó và sự giúp đỡ từ các nhà khoa học điện toán, chúng ta sẽ có thể đưa ra những dự đoán tình trạng kháng thuốc này sẽ lan nhanh đến đâu trong tương lai. Đó là mục tiêu tổng thể và việc đó sẽ khiến chúng ta mất một thời gian để có thể thực hiện tốt. Chúng tôi hy vọng rằng chúng tôi sẽ có thể dự đoán những gì sẽ xảy ra trong 5-10 năm tới và giúp dẫn dắt chính sách y tế trong khi chờ đợi các loại thuốc mới được đưa vào phòng khám.

USP: Tại sao không có đủ bằng chứng liên hệ giữa thuốc kém chất lượng với AMR?

Ts. Roepe: Lý do chính là khiến các nhà khoa học phải quan tâm đến câu hỏi này. Việc nghiên cứu cần được tài trợ, vì vậy cho đến khi có thêm kinh phí để xem xét vấn đề này một cách khoa học, sẽ chỉ có một nhóm nhỏ xem xét vấn đề này.

Thứ hai, những thách thức kỹ thuật để thực hiện công việc này là vô cùng khó khăn và điều tốt nhất chúng ta có thể làm là mô phỏng những gì xảy ra trong phạm vi nhất định.

USP: Tiến sĩ sẽ nói gì với các nhà tài trợ tiềm năng về nhu cầu nghiên cứu sâu hơn ở lĩnh vực này?

Ts. Roepe: Nếu hiện tượng kháng thuốc sốt rét ACT này lan sang tiểu lục địa Ấn Độ hoặc châu Phi, điều đó có nghĩa là hàng chục triệu người, chủ yếu là trẻ em, có nguy cơ mắc bệnh. Tôi biết có rất nhiều vấn đề cấp bách khác ảnh hưởng đến thế giới như biến đổi khí hậu và thách thức môi trường, nhưng chúng ta đang đứng trước những gì có thể làm để đối phó với một thảm họa tàn khốc ở nhiều châu lục

Nguồn: Global Health

Trong hơn 200 năm, USP đã nỗ lực xây dựng lòng tin ở những nơi quan trọng nhất: trong các loại thuốc, thực phẩm chức năng và thực phẩm trên thế giới. Thông qua khoa học nghiêm ngặt của chúng tôi và các tiêu chuẩn chất lượng công cộng mà chúng tôi đặt ra, USP giúp bảo vệ sự an toàn của bệnh nhân và cải thiện sức khỏe của mọi người trên khắp thế giới.

Chúng tôi đang nỗ lực tăng cường chuỗi cung ứng toàn cầu để các loại thuốc mà mọi người tin dùng để chăm sóc sức khỏe luôn có sẵn khi cần thiết và hoạt động như mong đợi.

Tiêu chuẩn tham chiếu USP-NFHóa chất thực phẩm Codex Bổ sung chế độ ăn uống Compendium Hợp chất tổng hợp USP | USP-NF Dược điển USP